Đánh giá tình hình thực hiện Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Nhằm phản ánh đúng tình hình thực hiện Luật TC&QCKT và Luật CLSPHH tại địa phương theo yêu cầu của UBND tỉnh, Bộ Khoa học và Công nghệ, Sở KH&CN báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Luật TC&QCKT và Luật CLSPHH như sau:
I. Tình hình thực hiện Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1. Đánh giá về công tác xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đánh giá sự phù hợp, về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
- Trong những năm qua, UBND tỉnh đã kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, kế hoạch triển khai Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và các văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa, quy định quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Khoa học và Công nghệ, các sở quản lý chuyên ngành ban hành các văn bản tuyên truyền, đôn đốc, hướng dẫn các sở ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị liên quan triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, hàng hóa như: Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá; Nghị định số 78/2018/NĐ-CP ngàỵ 16/5/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 127/2007/NĐ- CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp và Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09/11/2018 sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ và một số quy định về kiểm tra chuyên ngành,…
- Sở Khoa học và Công nghệ và các sở quản lý chuyên ngành thường xuyên tổ chức hội nghị, tuyên truyền, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, các cơ quan quản lý nhà nước trong tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố để triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa như Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và các văn bản liên quan; Tích cực triển khai các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ quản lý chuyên ngành trong công tác quản lý, điều hành về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, về chất lượng sản phẩm hàng hóa như Luật An toàn thực phẩm,…; Triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, kiểm tra về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Triển khai hướng dẫn, áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm, hàng hóa như: Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của Chính phủ…
- Hàng năm, xây dựng kế hoạch và tổ chức thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường, kiểm tra chất lượng trong sản xuất theo các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, kiểm tra của các Bộ quản lý chuyên ngành; Tổ chức triển khai hoạt động Giải thưởng Chất lượng quốc gia theo Thông tư số 27/2019/TT-BKHCN ngày 26/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết thi hành một số điều Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 và Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ về Giải thưởng chất lượng quốc gia.
- Với vai trò là cơ quan chủ trì trong tổ chức triển khai thi hành Luật tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Luật Chất lượng, sản phẩm hàng hoá trên địa bàn tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Tài chính cùng các sở ngành khác đã tổ chức góp ý, thẩm định kịp thời các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo chất lượng, khả thi; phối hợp tham mưu Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành 03 nghị quyết, 05 quyết định (đính kèm phụ lục), đảm bảo thực hiện đúng quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định, gắn với tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống.
- Hoạt động tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động thương mại, sản xuất, kinh doanh,…trong thời gian qua. Bên cạnh đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã từng bước được hoàn thiện phù hợp với tình hình hiện nay. Công tác tuyên truyền, phổ biến về áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng đã được nâng cao và bao quát hơn. Do đó, các doanh nghiệp đã từng bước nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng như sự phù hợp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của mình với các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật giúp chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng được nâng cao.
- Về phía các sở ngành, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao đã chỉ đạo các phòng chuyên môn, các đơn vị trực thuộc chủ động cập nhật, nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đánh giá sự phù hợp, về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có liên quan đến công tác xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời các sở ngành cử công chức tham dự hội nghị phổ biến các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp các Bộ Công Thương, Bộ Y Tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn... tổ chức.
2. Tình hình và kết quả kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa thuộc trách nhiệm quản lý theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
- Trong những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa được tăng cường; thanh tra, kiểm tra trên diện rộng, các vụ việc vi phạm được xử lý kịp thời, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, cũng như ngăn chặn các hành vi gian lận về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; đồng thời lồng ghép công tác thanh tra, kiểm tra với công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa đến các tổ chức, cá nhân, người dân được biết để từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
- Kết quả thanh tra, kiểm tra:
+ Lĩnh vực Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng: Sở Khoa học và Công nghệ đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 952 lượt cơ sở về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Kết quả: xử phạt vi phạm hành chính 56 trường hợp với tổng số tiền là 2.196.284.390 đồng.
+ Lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Sở Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 5.259 lượt cơ sở thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Kết quả: xử phạt vi phạm hành chính 669 trường hợp với tổng số tiền là 3.787.229.000 đồng.
+ Lĩnh vực Quản lý thị trường: Các Đội QLTT đã tổ chức kiểm tra và xử lý 64 vụ vi phạm trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu). Kết quả: Xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là 1.749.620.000 đồng.
+ Lĩnh vực Y tế: Sở Y tế đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 569 lượt cơ sở thuộc lĩnh vực Vệ sinh An toàn Thực phẩm. Kết quả: Xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là 1.799.960.000 đồng.
+ Lĩnh vực Thông tin và Truyền thông: đã tổ chức kiểm tra 120 lượt đối tượng. Kết quả: Xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là 7.000.000 đồng.
II. Nhận xét, đánh giá chung về tình hình chất lượng sản phẩm, hàng hóa thuộc trách nhiệm quản lý; công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; công tác phối hợp trong thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa; công tác về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
1. Thuận lợi
Nhìn chung, trong thời gian qua theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các sở ngành đã đảm bảo công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hoá ngành, đã bám sát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và tình hình thực tiễn của địa phương để thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trên địa bàn tỉnh. Cụ thể:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hoá tương đối đầy đủ. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra kết hợp thực hiện tuyên truyền các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến các tổ chức, cá nhân có tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh lĩnh vực ngành quản lý; nhờ đó đã nâng cao nhận thức và tính chấp hành cao đối với các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hầu hết các sản phẩm hàng hóa trước khi lưu thông trên thị trường đáp ứng các quy định về công bố tiêu chuẩn áp dụng, đăng ký công bố hợp chuẩn, hợp quy, nhãn hàng hóa.
- Việc thông tin về tình hình, kết quả sau kiểm tra cũng được các cơ quan thực hiện khá tốt. Cơ quan chủ trì thông báo bằng văn bản về kết quả kiểm tra cho cơ quan tham gia phối hợp. Trong quá trình kiểm tra trên thị trường khi phát hiện vi phạm, các cơ quan kiểm tra cũng thông báo cho các cơ quan kiểm tra trong sản xuất tại các địa phương phối hợp để có thông tin quản lý, kiểm tra trong sản xuất.
- Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trên địa bàn của tỉnh được thực hiện thường xuyên, có trọng tâm theo kế hoạch định kỳ và chuyên đề hàng năm theo chỉ đạo của Bộ ngành có liên quan.
- Hằng năm, Thanh tra tỉnh chủ trì phối hợp với các sở ngành rà soát và thống nhất danh sách các doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra giữa các sở ngành đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao của các sở, ngành, tránh chồng chéo, tạo thuận lợi trong công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra, tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp.
- Các sở ngành thường xuyên tạo điều kiện và cử cán bộ tham gia các Đoàn kiểm tra liên ngành 389 tỉnh, Đoàn kiểm tra liên ngành do Sở Công Thương chủ trì và Đoàn kiểm tra liên ngành về An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh,… Công tác phối hợp với các đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh, đoàn kiểm tra của huyện được duy trì và thực hiện tốt.
- Đa số các hàng hóa đã có quy chuẩn kỹ thuật đều được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy và có nhãn hàng hóa thể hiện đầy đủ nội dung theo quy định gắn dấu hợp quy CR.
- Mã số mã vạch có ý nghĩa quan trọng trong việc chống hàng giả, hàng nhái; giúp cung cấp thông tin và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa; tạo ra sự minh bạch trong sản xuất, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ uy tín và hình ảnh sản phẩm, hàng hóa của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh; giúp các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thuận tiện trong việc thanh tra, kiểm tra; phát hiện nhanh, xử lý kịp thời đối với các sản phẩm khi lưu thông ra thị trường. Do đó, việc quy định về quản lý mã số mã vạch trong khuôn khổ pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là phù hợp và rất cần thiết.
2. Khó khăn
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác quản lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hoá còn gặp phải một số hạn chế như sau:
- Việc triển khai Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 132/2008/NĐ-CP giữa các ngành chưa thực sự đồng bộ, một số nội dung chưa thực hiện thống nhất theo hướng dẫn chung của Bộ Khoa học và Công nghệ như: việc kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường theo quy định tại Thông tư số 26/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 và Thông tư số 12/2017/TT-BKHCN ngày 28/9/2017; Việc công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định tại Thông tư 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 và Thông tư số 02/2017/TT-BKHCN ngày 31/3/2017.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 41 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa: "Căn cứ kết quả thử nghiệm, cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa kết luận người sản xuất, người bán hàng vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì người sản xuất, người bán hàng phải trả chi phí lấy mẫu và thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa". Vấn đề này gây khó khăn cho lực lượng thi hành nhiệm vụ khi thu hồi khoản chi phí lấy mẫu và thử nghiệm do nghị định xử phạt không có quy định và không có hướng dẫn hình thức thu, nộp vào ngân sách nhà nước.
- Hiện nay chưa có quy định cụ thể việc "thu hồi, xử lý sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng" theo Khoản 9 Điều 10 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007. Do vậy khi cơ quan chức năng lấy mẫu hàng hóa kiểm tra ở cơ sở kinh doanh thì lập tức được báo về cơ sở sản xuất, và cơ sở sản xuất biết là lô hàng sẽ không đạt chất lượng như công bố thì nhanh chóng cơ sở sản xuất có văn bản gởi cơ sở kinh doanh là sẽ thu hồi lô hàng về để tái chế... và thông báo cho cơ quan kiểm tra biết, nhằm tránh xử lý vi phạm, xử phạt hành chính của cơ quan kiểm tra.
- Khó khăn, vướng mắc trong quy định công bố tiêu chuẩn áp dụng, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy, cụ thể như sau:
2.1 Lĩnh vực nông nghiệp
- Trồng trọt và Bảo vệ thực vật: Tại Khoản 8, Điều 3, Thông tư số 06/2020/TT-BKHCN ngày 10/12/2020 về quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008, Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018, Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09/11/2018 và Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của Chính phủ quy định: "Báo cáo kết quả tự đánh giá" bao gồm các thông tin sau: "Tên tổ chức, cá nhân; địa chỉ, điện thoại, fax; tên sản phẩm, hàng hóa, nhà sản xuất; số hiệu quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; kết quả thử nghiệm phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của tổ chức thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng; kết luận sản phẩm, hàng hóa phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; cam kết chất lượng sản phẩm, hàng hóa phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn công bố áp dụng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và kết quả tự đánh giá". Tuy nhiên, thông tin về "Kết quả thử nghiệm chất lượng sản phẩm hàng hóa nhóm 2 theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng" trong Báo cáo tự đánh giá chưa quy định cụ thể nên còn gặp một số vướng mắc trong việc hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện, cụ thể là:
+ Kết quả thử nghiệm chất lượng sản phẩm hàng hóa nhóm 2 theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng: Ở nội dung này, không có quy định tổ chức thử nghiệm nào được thực hiện thử nghiệm nên rất khó thực hiện.
+ Không quy định rõ ràng về thời hạn giá trị của phiếu kết quả thử nghiệm chất lượng sản phẩm trong thành phần hồ sơ công bố hợp quy.
+Tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/08/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, quy định "Khi công bố hợp quy, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh phải đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan quản lý chuyên ngành ở địa phương nơi tổ chức, cá nhân đó đăng ký hoạt động sản xuất, kinh doanh". Thực tế cho thấy, một số tổ chức, cá nhân có sản phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được cấp Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam/Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thuốc BVTV, có trụ sở tại các địa phương khác, thông qua các hình thức như: Giấy ủy quyền, Hợp đồng nhượng quyền, Hợp đồng gia công với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh phân bón, thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh Long An và thực hiện đăng ký bản công bố hợp quy tại tỉnh Long An hoặc bên nhận ủy quyền/nhận gia công, sản xuất đứng tên thực hiện đăng ký bản công bố hợp quy tại tỉnh Long An; từ đó đã gây khó khăn trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký công bố hợp quy của 02 trường hợp nói trên. Đề nghị: cơ quan có thẩm quyền có những quy định và hướng dẫn cụ thể về các trường hợp trên.
+ Vướng mắc: Việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 nhập khẩu (phân bón, thuốc BVTV) chưa thể thực hiện được do chưa có văn bản hướng dẫn quy định về thủ tục hành chính thực hiện tiếp nhận trong khi thực tế trên địa bàn tỉnh Long An, số lượng các tổ chức, cá nhân nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc BVTV là khá nhiều. Cụ thể: Ngày 05/10/2018, Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành Thông tư số 12/2018/TT-BNNPTNT về ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng thuốc bảo vệ thực vật (QCVN 01-188:2018/BNNPTNT) và ngày 27/8/2019, Bộ ban hành Thông tư số 09/2019/TT-BNNPTNT về ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón (QCVN 01-189:2019/BNNPTNT); Ngày 29/3/2021, Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành Quyết định số 1299/QĐ-BNN-KHCN về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ lĩnh vực khoa học công nghệ và môi trường thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ NN và PTNT, tuy nhiên văn bản chưa đề cập đến thủ tục hành chính tiếp nhận hồ sơ đăng ký công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 nhập khẩu (phân bón, thuốc BVTV). Kiến nghị: cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn các quy định về thủ tục hành chính tiếp nhận hồ sơ đăng ký công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 nhập khẩu đối với phân bón, thuốc BVTV.
- Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản: Một số QCVN quy định chung chung về việc tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy chất lượng sản phẩm như sau: "Thực hiện công bố hợp quy và gửi hồ sơ công bố hợp quy về cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định"; do đó rất khó cho doanh nghiệp, cũng như đơn vị quản lý. Cụ thể tại các QCVN sau: QCVN 02-03:2009/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở chế biến thuỷ sản ăn liền – Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; QCVN 02-04:2009/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở sản xuất đồ hộp thuỷ sản – Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; QCVN 02-08:2009/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở sản xuất nước đá thuỷ sản – Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; QCVN 02-09:2009/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kho lạnh thuỷ sản – Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; QCVN 02-10:2009/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở thu mua thuỷ sản – Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm. Kiến nghị: Bộ Khoa học và Công nghệ phản ánh cùng các Bộ chuyên ngành tổng hợp rà soát, quy định rõ đơn vị tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy đối với những sản phẩm nêu trên. Khó khăn, vướng mắc trong công tác tiếp nhận công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy:
2.2 Lĩnh vực Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
Việc công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định tại Thông tư 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 và Thông tư số 02/2017/TT-BKHCN ngày 31/3/2017, chưa có quy định rõ về việc nộp bản sao y bản chính tiêu chuẩn sử dụng làm căn cứ công bố (bằng tiếng Việt) cho trường hợp Thủ tục đăng ký công bố hợp chuẩn dựa trên kết quả tự đánh giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dẫn đến việc các Tổ chức, cá nhân nộp bản tiêu chuẩn bằng tiếng nước ngoài (Anh, Nhật, Trung Quốc, Đức…) gây rất nhiều khó khăn cho công tác thẩm định và xử lý đối với loại hồ sơ này, mà không có quy định nào để làm căn cứ yêu cầu các đơn vị này phải nộp bản dịch tiếng Việt cho các Tiêu chuẩn nước ngoài.
Kiến nghị: Bộ Khoa học và Công nghệ sớm rà soát, quy định hoặc kiến nghị Cơ quan cấp trên quy định rõ việc nộp hồ sơ và các tài liệu kèm theo bằng ngôn ngữ Việt cho các thủ tục thuộc lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng nói riêng và các thủ tục thực hiện tại Việt Nam nói chung.
Sự chồng chéo, trùng lặp giữa Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật với Luật chuyên ngành khác:
- Về hình thức công bố hợp quy: Hiện nay có 2 hình thức công bố hợp quy: (1) Căn cứ Điều 48. Công bố hợp quy; Điều 49. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đề nghị chứng nhận hợp quy của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; (2) Căn cứ thủ tục tự công bố sản phẩm tại Điều 6,7,8 Nghị định số 15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm. Kiến nghị: xem xét, thống nhất hình thức công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm có phù họp với các quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuân kỹ thuật.
- Chưa có quy định rõ nội dung và ngưỡng giới hạn của Quy chuẩn kỹ thuật địa phương so với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (đối với cùng một sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình được giao quyền tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hay văn bản quy phạm pháp luật liên quan).
- Trong quản lý của một số ngành vẫn còn một số sản phẩm hiện nay chưa có Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật đã gây khó khăn trong việc kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm như: thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm chế độ ăn đặc biệt, chất hỗ trợ chế biến...
- Hiện tỉnh chưa có phòng thử nghiệm có đủ năng lực thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của một số sản phẩm, hàng hoá.
- Đối với truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá chưa quy định cụ thể về hoạt động truy xuất nguồn gốc. Vì vậy, cần bổ sung quy định "Quản lý về truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa" nhằm giải quyết các khó khăn, vướng mắc hiện nay về truy xuất nguồn gốc và mang lại các hiệu quả thiết thực; đồng thời, giải quyết những khó khăn, bất cập trong thời gian vừa qua như việc hệ thống tiêu chuẩn quốc gia và các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở để triển khai áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc của Việt Nam chưa đầy đủ và thống nhất; tem truy xuất nguồn gốc áp dụng trên các sản phẩm hiện nay chưa được chuẩn hóa về nội dung và hình thức; các hệ thống truy xuất nguồn gốc hiện tại mang tính khép kín, không có khả năng tương tác, liên kết, chia sẻ và trao đổi dữ liệu với các hệ thống truy xuất nguồn gốc khác; thông tin truy xuất nguồn gốc chưa đáp ứng đúng yêu cầu về truy xuất theo Quyết định 100 của Chính phủ.
- Nguồn nhân lực cán bộ quản lý mỏng, kinh phí cho hoạt động thanh, kiểm tra, thu mẫu còn thiếu chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết cho việc kiểm tra thường xuyên; kinh phí kiểm nghiệm giám định mẫu cao, thời gian trưng cầu giám định, kiểm nghiệm dài nên việc phát hiện, xử lý về chất lượng gặp nhiều khó khăn; trang thiết bị để thực hiện công tác kiểm tra đặc thù, kiểm tra nhanh chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn thiếu nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Một số doanh nghiệp vì lợi nhuận thực hiện chưa nghiêm, dẫn đến tình trạng sản phẩm khi được cấp chứng nhận thì đạt chất lượng, nhưng khi đưa ra thị trường lại không đạt, chưa tích cực phối hợp với các lực lượng chức năng trong việc phát hiện kiểm tra xử lý đối với hàng hóa là hàng giả, hàng kém chất lượng; hàng vi phạm sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.
III. Đề xuất, kiến nghị
- Kiến nghị để sửa đổi, bổ sung khoản 9 Điều 10 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, tránh trường hợp nhà sản xuất lách luật; và Khoản 2 Điều 41 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng thực hiện (như đã nêu phần vướng mắc ở trên).
- Một số quy định tại Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn theo hướng đẩy mạnh hậu kiểm cụ thể: các quy định về công bố, chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy trong Luật và Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật An toàn thực phẩm; cần quy định lại thoáng hơn.
- Kiến nghị ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia đối với nhóm các hàng hóa liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm; sản phẩm nông nghiệp; hàng công nghiệp thiết yếu…nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên thị trường cũng như thống nhất quản lý nhà nước.
- Cần có sự thống nhất chung về nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm soát viên chất lượng, thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (theo Luật thanh tra, Luật xử lý vi phạm hành chính).
- Hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước (thanh tra, kiểm tra) về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho các cán bộ, công chức của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương./.


P.Nghiệp vụ_Chi cục TĐC-PĐ