Một
DN trong lĩnh vực KHCN hỏi: Trước nay chúng ta ưu tiên DN công nghệ
bằng việc miễn, giảm thuế thu nhập DN. Việc miễn thuế thu nhập DN chỉ
khuyến khích nhập khẩu công nghệ, chưa khuyến khích phát minh công nghệ.
Theo tôi Nhà nước cần có chương trình miễn thuế thu nhập cá nhân cho
chuyên gia, nhà sáng chế, vì các DN khởi nghiệp liên tục lỗ nên miễn
thuế thu nhập DN chẳng có ý nghĩa lớn. Bộ trưởng có ý kiến gì về việc
này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Các
DN KHCN được ưu đãi của Nhà nước thông qua thuế, được quy định rõ trong
Nghị định số 80/2007 của Chính phủ về DN KHCN. Trong thông tư hướng dẫn
nghị định cũng nói rõ là các chế độ ưu đãi về thuế chỉ áp dụng đối với
DN có lãi. Có nghĩa là nếu DN thua lỗ triền miên chưa áp dụng ưu đãi
thuế. Khi DN làm ăn có lãi thì áp dụng mức ưu đãi thuế cao nhất đối với
DN khoa học đó là 4 năm miễn hoàn toàn, 9 năm giảm 50%, thuế suất chỉ
10% so với thuế suất thông thường. Đây là sự ưu đãi rất lớn của Nhà
nước.
Tôi cũng không
đồng ý quan điểm miễn thuế thu nhập cá nhân, nhất là trong bối cảnh hiện
nay, rất nhiều người có thể lợi dụng việc này. Ví dụ, doanh nghiệp thì
thua lỗ, nhưng đội ngũ lãnh đạo của DN thu nhập rất cao.
Còn
các DN ứng dụng thành công các nghiên cứu của giới khoa học thì họ
không chỉ được ưu đãi về thuế thu nhập DN mà còn được hưởng ưu đãi khác.
Ví dụ được thuê đất với giá thấp nhất trong khung giá do Nhà nước quy
định; được tiếp cận với các nguồn vốn và các nguồn tài chính; được miễn
thuế đối với các hoạt động nghiên cứu, đào tạo trong DN, thông qua việc
dành một phần lợi nhuận của DN bằng việc thành lập quỹ phát triển DN. Và
như vậy, khi họ kinh doanh có lãi thì họ được áp dụng các quy định miễn
thuế theo quy định của Nhà nước.
Ông
Lê Quốc Vinh, Chủ tịch, Tổng giám đốc LeeGroup hỏi: Chúng ta đầu tư khá
nhiều cho việc quy hoạch, xây dựng các khu công nghệ cao, nhưng thực tế
có thu hút được các DN công nghệ hay không, có hiệu quả thực sự không?
Nên chăng, thay vì đầu tư các khu công nghệ cao, chúng ta nên lựa chọn
các DN công nghệ có tiềm năng và có sản phẩm sáng tạo thật sự và đầu tư
trực tiếp cho họ. Xin Bộ trưởng cho ý kiến về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tôi
đồng tình với ý kiến nói trên ở một góc độ, đó là chúng ta phải làm sao
thu hút được các DN công nghệ cao vào các khu công nghệ cao. Hiện nay,
có xu hướng không lành mạnh lắm, đó là nhiều địa phương xin thành lập
các khu công nghệ cao, điều này sẽ làm phân tán nguồn lực của ngành công
nghệ cao.
Nhà nước
không chỉ đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao mà Nhà nước có thể đầu tư
vào DN không phải trong khu công nghệ cao nhưng DN đó là DN công nghệ
cao. Cho dù họ đầu tư vào các khu công nghiệp, thậm chí là tồn tại độc
lập, thì ở đâu có công nghệ cao thì Nhà nước phải hỗ trợ. Ở đâu mà sản
xuất được sản phẩm công nghệ cao, công nghệ mới, lần đầu tiên được áp
dụng ở Việt Nam, những công nghệ có giá trị gia tăng cao thì chúng ta
đều phải hỗ trợ.
Và như
vậy, chúng ta không phân biệt trong khu công nghệ cao hay ngoài khu công
nghệ cao. Nhưng chúng ta vẫn phải làm khu công nghệ cao, vì kinh nghiệm
các nước phát triển, đặc biệt là các nước mới nổi, các khu công nghệ
cao đóng vai trò đầu tàu để lan tỏa những công nghệ mới, công nghệ cao,
mà ở đó chúng ta tập trung các viện nghiên cứu, trường đại học, chứ
không chỉ các khu công nghiệp.
Kinh
nghiệm ở khu công nghệ cao Tân Trúc (Đài Loan, Trung Quốc) là một ví dụ
rất điển hình. Chỉ 100.000 lao động ở Tân Trúc, hàng năm xuất khẩu cho
Đài Loan khoảng 50 tỷ USD. Trung bình một lao động tạo giá trị lên tới
nửa triệu đô la/năm.
Hiện
nay nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… rất quan tâm đến
công nghiệp sáng tạo (Creative Industries). Đóng góp của ngành này có
thể từ 7-15% GDP. Tuy nhiên hiện lĩnh vực này ở nước ta còn rất nhiều
khó khăn vì gần như chưa được nghiên cứu và chưa có quy hoạch cụ thể.
Xin Bộ trưởng cho biết chúng ta sẽ có chính sách như thế nào để thúc
đẩy, phát triển công nghiệp sáng tạo?
Bộ
trưởng Nguyễn Quân: Chính phủ Việt Nam quan tâm đến vấn đề này từ rất
lâu rồi và Bộ KHCN cũng trình Chính phủ đề án từ thập kỷ trước và đến
2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 80 về DN KHCN, thực chất là DN
sáng tạo hay là công nghiệp sáng tạo. Tất nhiên, đây là vấn đề vẫn còn
mới mẻ đối với Việt Nam nên Nghị định 80 là viên gạch đầu tiên đặt nền
móng cho ngành công nghiệp sáng tạo.
Và
trong gần 8 năm qua, chúng tôi cùng với các bộ, ngành đã xây dựng hệ
thống các doanh nghiệp KHCN mặc dù số lượng còn ít nhưng là khởi đầu cho
quá trình để chúng ta có hệ thống DN sáng tạo, mà chúng ta vẫn gọi là
đổi mới sáng tạo. Tiêu biểu như là Công ty Xuất nhập khẩu Hải Phòng,
Công ty Cấp thoát nước Bà Rịa - Vũng Tàu, là những DN có giá trị gia
tăng rất lớn, tốc độ tăng trưởng cao và họ tồn tại bền vững ngay cả
trong cuộc khủng hoảng kinh tế vừa rồi.
Chúng
tôi quan tâm tới các DN này không chỉ bằng các văn bản của Chính phủ mà
còn tăng cường hợp tác quốc tế. Vừa rồi, Ngân hàng Thế giới đã tài trợ
cho một dự án để thúc đẩy phát triển khoa học sáng tạo với giá trị 100
triệu USD. Chính phủ Phần Lan cũng tiếp tục tài trợ cho một dự án đổi
mới sáng tạo cho DN, trị giá 10 triệu euro.
Chính
phủ Việt Nam cũng dành ngân sách đáng kể để phát triển hỗ trợ hình
thành DN KHCN. Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 592 hỗ trợ các tổ
chức KHCN của Việt Nam tạo ra các DN khoa học từ kết quả nghiên cứu của
các tổ chức KHCN. Chúng tôi hy vọng đến năm 2020 sẽ có khoảng 5.000 DN
KHCN, như Chiến lược phát triển khoa học công nghệ mà Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt và chúng ta sẽ tạo ra được từ 7-15% GDP từ những DN
khoa học công nghệ này.
Báo
chí gần đây có nói về việc ông Lê Văn Đáo ở Khoái Châu, Hưng Yên chế
được thuốc trừ sâu từ dược thảo, không độc hại cho con người. Tuy nhiên,
sản phẩm này lại chỉ sản xuất được ở quy mô rất nhỏ vì không có “bà
đỡ”, không có cơ quan tổ chức nào đứng ra hỗ trợ nghiên cứu và đầu tư để
nhân rộng. Rõ ràng, đây không chỉ là lãng phí công nghệ mà còn là lãng
phí tài nguyên, chất xám. Bộ trưởng thấy mình có trách nhiệm và giải
pháp gì để giải quyết tình trạng như vậy?
Bộ
trưởng Nguyễn Quân: Thông tin này tôi mới được biết, tuy nhiên đứng về
mặt quản lý ngành khoa học công nghệ, chúng tôi thấy Bộ KHCN hay các cơ
quan liên quan cần có trách nhiệm trong việc này. Khi một người dân, một
nhà khoa học, thậm chí một DN có được kết quả nghiên cứu có thể còn sơ
khai thì cơ quan quản lý cần có trách nhiệm hỗ trợ nghiên cứu đó.
Ở
đây là trách nhiệm của Sở KHCN địa phương, khi phát hiện người dân có
nghiên cứu đó thì phải hỗ trợ, giới thiệu người dân đó với các cơ quan
nghiên cứu Trung ương hoặc địa phương đủ năng lực để đánh giá và hỗ trợ
cho người dân nghiên cứu hoàn thiện sản phẩm, giúp họ đăng ký sản phẩm.
Nếu là sáng chế thì cấp bằng sáng chế, nếu là sáng kiến thì được bảo hộ
quyền tác giả, hoặc nếu là kiểu dáng công nghiệp thì được cấp bằng kiểu
dáng công nghiệp để họ yên tâm sản phẩm của họ được bảo hộ. Sau khi hoàn
thiện thì có thể được ứng dụng trong cuộc sống.
Tuy
nhiên, cũng phải nói là chúng ta đang bước vào nền kinh tế thị trường,
để những sản phẩm này vào cuộc sống thì phải tuân thủ quy luật của nền
kinh tế thị trường. Có nghĩa là nó phải có đầu ra, hay nói cách khác các
DN muốn đầu tư sản xuất thuốc trừ sâu của người nông dân này thì phải
có lãi, nếu không thì không dám đầu tư. Còn cơ quan Nhà nước chỉ có thể
hỗ trợ người dân hoàn thành sản phẩm của mình, còn để sản phẩm thành sản
phẩm thương mại hóa thì còn nhiều yếu tố khác.
Một
số vùng ở thành phố và nông thôn đang bị ô nhiễm nguồn nước, đây là một
trong những nguyên nhân khiến tỉ lệ mắc bệnh ung thư ở nước ta rất cao.
Xin Bộ trưởng cho biết Bộ KHCN có chương trình phối hợp với các Bộ,
ngành khác, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường để khắc phục tình
trạng này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về
trách nhiệm quản lý Nhà nước, Bộ KHCN là cơ quan được Chính phủ giao
quản lý các công nghệ trong đó có công nghệ môi trường. Thủ tướng Chính
phủ đã giao cho Bộ TNMT xây dựng Chương trình bảo vệ môi trường, nhưng
Bộ KHCN cũng tham gia ý kiến.
Vừa
rồi khi xây dựng Luật Khoa học công nghệ, chúng tôi cũng đưa vào quy
định mà được Quốc hội chấp nhận. Đó là các dự án sản xuất đầu tư lớn, kể
cả ở đầu tư nước ngoài thì đều có ý kiến thẩm định của Bộ KHCN về trình
độ công nghệ và tác động môi trường. Chúng tôi hy vọng sắp tới việc
kiểm soát ô nhiễm môi trường sẽ tốt hơn.
Ngoài
ra, chúng tôi hỗ trợ các bộ, ngành khi nghiên cứu về môi trường. Vừa
rồi Đại học Quốc gia Hà Nội đã có công trình nghiên cứu về Asen trong
nước ngầm tại Hà Nội và đã được đăng tải trên tạp chí khoa học hàng đầu
thế giới.
Trong
năm qua, chúng tôi đã hỗ trợ một dự án rất lớn nghiên cứu chế phẩm sinh
học để xử lý dioxin ô nhiễm trong đất ở các vùng bị ảnh hưởng bởi chất
độc da cam trong chiến tranh. Chúng tôi đang cho thử nghiệm trên quy mô
lớn, hy vọng sẽ xử lý triệt để ô nhiễm dioxin ở Việt Nam./.
Nguồn tin Chinhphu.vn